Kết hôn trái pháp luật và quyền nuôi con sau khi ly hôn
- Chi tiết
- Dịch vụ Tư vấn Luật - Luật sư giỏi, uy tín, giá rẻ
Anh trai tôi lấy vợ năm 2009 khi vợ mới 16 tuổi. Đến năm 2011 thì lấy giấy đăng ký kết hôn. Con của anh chị giờ đã gần 3 tuổi, vợ thì không có nghề nghiệp ổn định còn anh đã học hết trung cấp và hiện tại đang đi làm. Nếu anh chị tôi ly hôn thì sau khi ly hôn, quyền nuôi con thuộc về ai?
Và anh tôi có thể được nuôi con không? Nếu chị dâu tôi làm đơn kiện anh trai tôi đã quan hệ với trẻ vị thành niên và đã làm cho chị dâu tôi có bầu khi mới 16 tuổi tuy rằng cả 2 người đều tự nguyện trong mối quan hệ này thì nếu ra tòa anh tôi phải lãnh bản án như thế nào và có phải bồi thường gì không?
Có được tự ý bán tài sản chung của vợ chồng
- Chi tiết
- Dịch vụ Tư vấn Luật - Luật sư giỏi, uy tín, giá rẻ
Vợ chồng tôi cùng mua mảnh đất và thống nhất là đứng tên chồng tôi. Do điều kiện công việc tôi phải đi xa nhà 6 năm. Trong thời gian này, chồng tôi đã bán một nửa mảnh đất mà không nói với tôi. Sau đó một thời gian chồng tôi lâm bệnh và qua đời. Việc chồng tôi tự ý bán đất như vậy có đúng pháp luật hay không? Nay tôi muốn đòi lại diện tích đất mà chồng tôi đã bán có được hay không?
Chào bạn !
Trí Tuệ Luật xin tư vấn luật như sau:
Vì mảnh đất trên do hai vợ chồng bạn mua trong thời kỳ hôn nhân nên thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp chung của cả hai vợ chồng bạn. Do mảnh đất trên là tài sản chung hợp nhất nên cả hai vợ chồng bạn đều có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung này (Điều 219 Bộ luật Dân sự 2005). Vì vậy, chồng bạn không thể một mình tiến hành thủ tục chuyển nhượng, tặng cho… mà không có sự đồng ý của bạn được. Trường hợp chồng bạn vẫn tiến hành thủ tục chuyển nhượng, tặng cho mà không có sự đồng ý của bạn thì hợp đồng không có giá trị pháp lý.
Trong trường hợp của bạn, chồng bạn đã chuyển nhượng một nửa phần giá trị mảnh đất trong khối tài sản chung hợp nhất của cả hai vợ chồng bạn khi chưa có sự đồng ý của bạn và cũng không có văn bản thỏa thuận chia tài sản chung có chữ ký của cả hai vợ chồng (nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu tòa án giải quyết - Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) là trái quy định của pháp luật.
Chồng có phải trả nợ thay cho vợ không?
- Chi tiết
- Dịch vụ Tư vấn Luật - Luật sư giỏi, uy tín, giá rẻ
Trước khi kết hôn, vợ tôi có vay một số tiền của người khác, sau khi kết hôn cô ấy tiếp tục vay, cho đến giờ thì không còn khả năng trả nợ nữa. Về việc vay nợ của vợ tôi, tôi hoàn toàn không biết. Chủ nợ đến và đòi tôi phải trả thay cho vợ. Cho tôi hỏi, tôi có phải chịu trách nhiệm trong việc này không?
Công nhận việc đăng ký kết hôn đã được tiến hành ở nước ngoài
- Chi tiết
- Dịch vụ Tư vấn Luật - Luật sư giỏi, uy tín, giá rẻ
con gái tôi là người Việt Nam, lấy chồng người Đài Loan. Chồng làm việc tại Malaixia. Họ muốn đăng kí kết hôn tại Singapore. Vậy thủ tục đăng kí tại đó thế nào và đăng kí đó có giá trị pháp lý tại Việt Nam hay Đài Loan không? Cám ơn sự trả lời của ban tư vấn pháp luật.
Xác định tài sản chung khi li hôn và nuôi dưỡng con sau li hôn
- Chi tiết
- Dịch vụ Tư vấn Luật - Luật sư giỏi, uy tín, giá rẻ
Năm 2001, chồng tôi có mua mảnh đất đứng tên chồng tôi. Giấy tờ mua bán chỉ là giấy viết tay có công chứng ở ấp.
Năm 2002 chúng tôi cưới nhau. Năm 2006, 2 vợ chồng mua thêm 1 mảnh đất bằng tiền chung đứng tên một mình chồng.
Năm 2007 chúng tôi bán mảnh đất mua năm 2001 và mua thêm 1 mảnh đất to hơn đứng tên hai vợ chồng tôi có sổ đỏ.
Năm 2008, Mua mảnh đất bằng giấy tờ viết tay và bán luôn vào cuối năm 2008.
Năm 2009 Bán mảnh đất mua năm 2007 (đứng tên vợ chồng). Dùng tiền này cộng với số tiền bán đất năm 2008 gửi về cho ông chú ruột chồng nhận hộ. Chú ruột chồng và bố chồng mua giùm hai vợ chồng tôi 1 mảnh đất vào năm 2009.
Năm 2010: Bán mảnh đất mua năm 2006 gửi tiền cho chú ruột chồng nhận hộ.
Năm 2010 hai vợ chồng tôi về Sơn Tây xây nhà và mở cửa hàng giầy dép ở Sơn Tây. Trong lúc chú chồng đi nhận tiền và mua đất, bố chồng đi cùng và đứng tên trên mảnh đất đã mua.
Năm 2010 Bố chồng tôi sang tên lại mảnh đất cho vợ chồng tôi dưới hình thức cho tặng và chỉ chồng tôi đứng tên. Chúng tôi xây nhà trên mảnh đất đó và mở cửa hàng karaoke. Vì chồng tôi đã đăng ký kinh doanh giầy dép ở Sơn Tây rồi nên nhờ em ruột chồng đứng tên trên giấy phép kinh doanh.
Khi hai vợ chồng có mâu thuẫn, chồng tôi viết giấy li hôn và bảo rằng đất là do bố mẹ anh ta cho riêng chồng và lấy sổ đỏ đi vay ngân hàng lấy vốn cho tôi kinh doanh giầy dép. Còn cửa hàng kinh doanh Karaoke thì chồng tôi nói là cho em chồng thuê kinh doanh.
Cho tôi hỏi:
1. Sau khi li hôn, những tài sản là nhà, cửa hàng, đất ... do tôi kể trên, tài sản nào được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng?
2. Nếu muốn những tài sản trên được công nhận là tài sản chung, tôi cần chứng minh những giấy tờ gì?
3. Hiện tại, tôi có con trai sinh năm 2003 và con gái sinh năm 2005, tôi có thể dành quyền nuôi cả hai con không?
4. Nếu tôi không chấp nhận li hôn (chỉ li thân) thì tôi có được chia tài sản làm vốn kinh doanh không?
5. Tôi là vợ nếu đưa đơn li hôn thì có thiệt thòi gì không?
Xin nói thêm rằng: Hiện tại chồng tôi quản lý mọi mặt của cửa hàng karaoke. Cửa hàng giầy dép do tôi quản lý. Số vốn chung của hai vợ chồng dùng để đầu tư hết vào cửa hàng karaoke. Số vốn đầu tư giầy dép do tôi vay mượn của bên ngoại (do chồng tôi nhận về và đưa cho tôi) nhưng chồng tôi không thừa nhận số vốn vay đầu tư vào cửa hàng giầy dép. Hiện tại chồng tôi quản lý tài chính của gia đình và đưa cho tôi mỗi tháng 5 triệu để trả lương cho nhân viên, nuôi con cái và chi tiêu trong gia đình và trả tiền thuê cửa hàng giầy dép. Tôi chỉ giữ được 3 giấy chuyển tiền của chồng tôi chuyển cho chú ruột và các giấy photo mua bán đất.
Chào bạn !
Trí Tuệ Luật xin tư vấn luật như sau:
1. Sau khi li hôn, những tài sản là nhà, cửa hàng, đất ... do tôi kể trên, tài sản nào được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng?
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Ngoài ra điểm B, Mục 3 Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng khoản 2 Điều 27 Luật HNGĐ như sau: Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng. Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên có thể xác định được những tài sản sau là tài sản chung của vợ chồng chị: các mảnh đất mua sau khi các chị đăng ký kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, quá trình sinh sống, những mảnh đất này đều đã được mua đi bán lại; và theo như chị nêu thì tài sản hiện tại của vợ chồng chị là: quyền sử dụng đất và nhà ở Sơn Tây mà vợ chồng chị nhờ bố chồng và chú chồng mua năm 2009 (đứng tên bố chồng chị), tuy nhiên hiện nay chồng chị đang coi tài sản này là tài sản riêng (vì bố chồng chị chuyển đối đứng tên quyền sử dụng đất cho chồng chị bằng hình thức tặng cho riêng); cửa hàng bán giầy dép và cở sở kinh doanh karaoke được xây dựng trên mảnh đất đó.
2. Nếu muốn những tài sản trên được công nhận là tài sản chung, tôi cần chứng minh những giấy tờ gì?
Nếu muốn những tài sản nêu trên là tài sản chung thì chị cần phải chứng minh được các tài sản trên là tài sản do vợ chồng chị hình thành tạo ra có được trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể:
- Đối với tài sản là quyền sử dụng đất và nhà ở Sơn Tây: Vì một lý do nào đó, vợ chồng chị không trực tiếp đứng ra mua đất mà gửi tiền nhờ bố và chú chồng mua hộ rồi đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là bố chồng. Chị cần phải có những chứng cứ chứng minh việc vợ chồng chị nhờ chú và bố chồng mua hộ đất như thế nào; giấy tờ mua bán đối với mảnh đất này, các giấy tờ chuyển tiền để mua đất… để chứng minh mảnh đất này là do công sức của vợ chồng chị tạo lập, nguồn gốc tiền mua đất là của vợ chồng chị, chủ sở hữu thực chất đối với mảnh đất là thuộc về vợ chồng chị, còn chú và bố chồng chỉ là người đứng lên thực hiện thay; hoặc có văn bản thỏa thuận giữa 2 vợ chồng chị là mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng.
- Đối với cửa hàng bán giầy dép và cở sở kinh doanh karaoke (cho thuê) mà vợ chồng chị mở ra để kinh doanh, tạo thu nhập cho gia đình thì đều là tài sản chung của vợ chồng. Chính vì vậy mà các hoạt động kinh doanh của các cơ sở này vợ chồng chị đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với việc sử dụng nguồn thu lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh này cũng như các nghĩa vụ nhằm mục đích phục vụ vào việc kinh doanh. Do đó, nếu chị vay tiền để đầu tư vào việc kinh doanh giầy dép, không sử dụng khoản vay vào mục đích cá nhân riêng, mà chồng chị cũng biết và thừa nhận việc vay tiền là nhằm để kinh doanh thì chồng chị cũng phải có nghĩa vụ trả nợ đối với khoản tiền vay.
3. Hiện tại, tôi có con trai sinh năm 2003 và con gái sinh năm 2005, tôi có thể dành quyền nuôi cả hai con không?
Khoản 2 Điều 92 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác”.
Như vậy cả 02 con của chị đều trên 03 tuổi nên khi ly hôn nếu 2 vợ chồng chị không thỏa thuận được việc nuôi con thì Tòa án sẽ xem xét để quyết định quyền nuôi con. Khi xem xét, Tòa án căn cứ vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi bên có đảm bảo quyền lợi về mọi mặt và nguyện vọng của các con chị để quyết định việc nuôi con.
4. Nếu tôi không chấp nhận li hôn (chỉ li thân) thì tôi có được chia tài sản làm vốn kinh doanh không?
Khi hôn nhân tồn tại, mà chị cần tiền để đầu tư kinh doanh riêng thì vợ chồng chị có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. (Khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình).
5. Tôi là vợ nếu đưa đơn li hôn thì có thiệt thòi gì không?
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì cả vợ và chồng đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Khi chị (hoặc chồng chị) yêu câu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì tòa án sẽ xem xét giải quyết. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn.
Các bên đều bình đẳng trước pháp luật trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến việc ly hôn như vấn đề tài sản, nuôi con, cấp dưỡng…Do vậy, nếu các bên đưa ra được những chứng cứ chứng minh hợp pháp của mình thì quyền lợi sẽ được pháp luật đảm bảo.
Hãy nhấc máy gọi số 0394721077 - 0373844485 để được sử dụng dịch vụ tư vấn luật tốt nhất.
Công ty chúng tôi luôn có đội ngũ luật sư giỏi, uy tín, và có tính chuyên nghiệp, tính quốc tế cao. Để đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng.
“ Thành công của khách hàng là thành công của Trí Tuệ Luật ”
Dịch vụ nổi bật Trí Tuệ Luật
- Luật sư Giám Đốc thẩm, tái thẩm
- Luật sư tham gia Tái thẩm, Giám đốc thẩm
- Tư vấn pháp luật qua tổng đài điện thoại
- Dịch vụ luật sư tranh tụng
- Tư vấn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa
- Điều chỉnh giấy chứng nhận Đầu tư
- Tư vấn thành lập công ty liên doanh
- Thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh
- Tư vấn pháp luật Hôn nhân gia đình
- Dịch vụ soạn thảo & tư vấn pháp lý
- Dịch vụ Luật sư cho Công ty
- Dịch vụ Tư vấn pháp Luật Lao Động
- Dịch vụ luật sư giải quyết tranh chấp
- Dịch vụ làm sổ đỏ, sang tên sổ đỏ
- Dịch vụ luật sư phân chia Di sản thừa kế
- Dịch vụ luật sư soạn thảo Di Chúc
- Dịch vụ công chứng tại Nhà
- Các loại hợp đồng Công Chứng Tại Nhà
- Dịch vụ luật sư khởi kiện Đòi nợ/thu hồi nợ
- Tư vấn pháp luật dài hạn cho DN
Dịch vụ Tư vấn pháp Luật
- Góp vốn cty bằng quyền Sở Hữu Trí Tuệ
- Các điều khoản về hợp đồng Thương Mại
- Thủ tục cty CP vốn 100% nước ngoài
- Thủ tục giải thể công ty có vốn nước ngoài
- Quy trình tư vấn thành lập công ty
- Thẻ tạm trú 3 năm cho người nước ngoài
- Gia hạn thẻ tạm trú cho người nước ngoài
- Dịch vụ tư vấn hồi hương,nhập lại quốc tịch
- Thủ tục gia hạn thẻ tạm trú cho người NN
- Dịch vụ Visa nhập cảnh VN cho người NN
- Tư vấn pháp luật có yếu tố nước ngoài
- Người nước ngoài sở hữu nhà tại VN
- Tư vấn Kết Hôn có yếu tố nước ngoài
- Tư vấn pháp lý Doanh Nghiệp
- Thay đổi chủ Doanh Nghiệp Tư Nhân
- Dịch vụ tư vấn ly hôn