Tài sản chung hợp nhất của vợ chồng trong hôn nhân

tai-san-chung-hop-nhat-vo-chong-trog-hon-nhanTài sản chung hợp nhất của vợ chồng là tài sản trong đó mỗi bên vợ, chồng đều có quyền sở hữu đối với toàn bộ khối tài sản chung. Do vậy, không thể xác định được phần tài sản nào là của vợ, phần tài sản nào là của chồng trong khối tài sản chung hợp nhất, chỉ khi nào có sự phân chia tài sản chung của vợ chồng thì mới xác định được phần tài sản của từng người trong khối tài sản chung đó.

 

Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng trực tiếp tạo ra, có thể chỉ do vợ hoặc do chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân.

- Thành phần tài sản chung của vợ chồng: Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định tài sản chung của vợ chồng bao gồm:

+ Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân;

+ Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, có thể là: tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ, chồng có được hoặc tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ Luật Dân sự như xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu (Điều 239); xác lập quyền sở hữu đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy (Điều 240); xác lập quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên (Điều 241); xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc (Điều 242); xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc (Điều 243); xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước (Điều 244);

+ Các tài sản mà vợ, chồng mua sắm được bằng những thu nhập nói trên;

+ Tài sản mà vợ chồng được tặng, cho chung hoặc được thừa kế chung;

+ Tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn hoặc những tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng hay được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ chồng đã thoả thuận nhập vào khối tài sản chung.

Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt và thường có giá trị lớn trong khối tài sản chung của vợ chồng. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 khẳng định quyền sử dụng đất mà vợ, chồng "có được" sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng "có được" trước khi kết hôn hoặc được thừa kế riêng là tài sản riêng của vợ hoặc chồng, trừ khi vợ chồng có thoả thuận là tài sản chung.

Đối với những tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp nhưng không có chứng cứ khẳng định là tài sản riêng của một bên thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.

Để có căn cứ pháp lý xác định tài sản chung của vợ chồng, pháp luật qui định những tài sản như nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng thì trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên của cả vợ và chồng (Nghị định số 70/2001/NĐ-CP). Nếu tài sản chung của vợ chồng đã đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng trước khi Nghị định số 70/2001/NĐ-CP có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng, thì vợ hoặc chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại Giấy đăng ký quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản đó để ghi tên của cả vợ và chồng. Nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại Giấy đăng ký quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng thì tài sản đó vẫn là tài sản chung của vợ chồng (Điều 5 khoản 3 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP). Khi vợ chồng chia tài sản đã đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng thì có thể yêu cầu cấp lại Giấy đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản.

Hãy nhấc máy gọiTỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬTđể được sử dụng dịch vụ tư vấn luật tốt nhất.Công ty chúng tôi luôn có đội ngũ luật sư giỏi, uy tín, và có tính chuyên nghiệp, tính quốc tế cao. Để đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng.

“ Thành công của khách hàng là thành công của TLLAW.VN ”