Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
- Chi tiết
- Dịch vụ Tư vấn Luật - Luật sư giỏi, uy tín, giá rẻ
Tôi và người yêu tiến tới hôn nhân và đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân nơi tôi cư trú, nhưng họ yêu cầu anh ấy phải quay lại địa phương để xin Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì mới được đăng ký kết hôn. Vậy tôi xin hỏi, thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như thế nào?
Tôi xin chân thành cảm ơn văn phòng luật sư giỏi, uy tín đã tư vấn luật giúp tôi!
Chào bạn !
TLLAW.VN xin tư vấn pháp luật tốt nhất như sau:
Trong trường hợp của bạn, chồng sắp cưới của bạn phải quay lại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi anh ấy cư trú để xin cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo thủ tục quy định tại Điều 22 Nghị định 123/2015/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch như sau:
1.Người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nộp Tờ khai theo mẫu quy định. Trường hợp yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nhằm mục đích kết hôn thì người yêu cầu phải đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
2.Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn hoặc người vợ hoặc chồng đã chết thì phải xuất trình hoặc nộp giấy tờ hợp lệ để chứng minh; nếu thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 37 của Nghị định này thì nộp bản sao trích lục hộ tịch tương ứng.
3.Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra, xác minh tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu. Nếu người yêu cầu có đủ điều kiện, việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là phù hợp quy định pháp luật thì công chức tư pháp – hộ tịch trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân ký cấp 01 bản Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người có yêu cầu. Nội dung Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải ghi đúng tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu và mục đích sử dụng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
4.Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau, người đó có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình. Trường hợp người đó không chứng minh được thì công chức tư pháp – hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, Ủy ban nhân dân cấp xã được yêu cầu tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu về tình trạng hôn nhân của người đó trong thời gian thường trú tại địa phương.
5.Ngay trong ngày nhận được văn bản trả lời, nếu thấy đủ cơ sở, Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người yêu cầu theo quy định tại Khoản 3 Điều này.
6.Trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để sử dụng vào mục đích khác hoặc do Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã hết thời hạn sử dụng theo quy định tại Điều 23 của Nghị định này, thì phải nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó.
Như vậy, nếu chồng sắp cưới của bạn làm đúng theo quy định như trên thì sẽ được cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân và giấy này có giá trị 6 tháng kể từ ngày cấp
Hãy nhấc máy gọi 0394721077 - 0373844485 để được sử dụng dịch vụ tư vấn luật tốt nhất. TLLAW.VN luôn có đội ngũ luật sư giỏi, luật sư uy tín, và có tính chuyên nghiệp, tính quốc tế cao, để được đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng.
“ Thành công của khách hàng là thành công của TLLAW.VN ”
Thông tin luật mới nhất
Thông tin luật cũ hơn
- Nộp đơn ly hôn ở dâu khi chồng không có nơi cư trú ổn định
- Con có được chia tài sản nếu bố mẹ ly hôn?
- Chưa kết hôn và làm giấy khai sinh cho con
- Cơ quan nào có thẩm quyền cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
- Xin ly hôn với vợ hoặc chồng mất tích nhiều năm
- Hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
- Ngăn cản quyền thăm con sau khi ly hôn có bị xử lý không
- Xử lý hành vi tảo hôn
- Xác lập quan hệ nuôi con nuôi khi người nhận nuôi đã chết
- Cha mẹ ly hôn, con được quyền chọn người nuôi dưỡng