Vấn đề bạo lực gia đình

van-de-bao-luc-gia-dinhKính gửi luật sư, tôi kết hôn được 5 năm nay. Tôi có một đứa con trai năm nay được 4 tuổi. Chồng tôi là người nghiện rượu. Mỗi lần chồng tôi uống rượu là lại về mắng chửi tôi và còn đánh đuổi tôi.

Có những lần tôi không chịu nổi, tôi bỏ chạy trốn về nhà bố mẹ chồng ở gần nhà tôi nhưng tôi lại bị chồng tôi đánh nặng hơn. Nhiều người khuyên tôi nên ly hôn, nhưng vì con tôi không muốn ly hôn. Luật sư cho tôi hỏi, tôi có thể làm gì để bảo vệ lấy mình mà không phải ly hôn?

Tôi xin chân thành cảm ơn văn phòng luật sư giỏi, uy tín đã tư vấn luật giúp tôi!

Chào bạn !

TLLAW.VN xin tư vấn pháp luật tốt nhất như sau:

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định hành vi bạo lực gia đình là những hành vi như: “Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng”.

– Theo khoản 1 Điều 19 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ như sau:

“Các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ được áp dụng kịp thời để bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình, chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, giảm thiểu hậu quả do hành vi bạo lực gây ra, bao gồm:

a) Buộc chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình;

b) Cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình;

c) Các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình;

d) Cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân (sau đây gọi là biện pháp cấm tiếp xúc).”

Căn cứ vào quy định trên, nếu người có mặt tại nơi xảy ra bạo lực gia đình tùy theo tính chất, mức độ của hành vi bạo lực và khả năng của mình có trách nhiệm thực hiện các biện pháp buộc chấm dứt hành vi bạo lực gia đình và cấp cứu nạn nhân.

– Theo quy định tại Điều 20 và Điều 21 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định Uỷ ban nhân dân và Toà án nhân dân đang thụ lý hoặc giải quyết vụ án dân sự giữa nạn nhân bạo lực gia đình và người có hành vi bạo lực gia đình quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc khi có đủ các điều kiện sau đây:

“a) Có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình;

b) Hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe hoặc đe dọa tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình;

c) Người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc.”

– Theo quy định tại Điều 24 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình: “Nạn nhân bạo lực gia đình được tư vấn về chăm sóc sức khoẻ, ứng xử trong gia đình, pháp luật và tâm lý để giải quyết tình trạng bạo lực gia đình.”

– Theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định: “Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”

Căn cứ các quy định nêu trên, bạn có thể được tư vấn để bảo vệ sức khoẻ, ứng xử trong gia đình, pháp luật và tâm lý để giải quyết tình trạng bạo lực gia đình. Nếu tình trạng bạo lực ngày càng trầm trọng ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ của bạn thì bạn có thể yêu cầu Uỷ ban Nhân dân hoặc Toà án nơi chị cư trú áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc đối với chồng của bạn. Hành vi dùng bạo lực gia đình của chồng bạn tuỳ theo tính chất mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường theo quy định của pháp luật.