Tranh chấp quyền thừa kế sử dụng đất
- Chi tiết
- Dịch vụ Tư vấn Luật - Luật sư giỏi, uy tín, giá rẻ
Bố mẹ tôi có căn nhà trên diện tích đất 550 m2 nguồn gốc là của tổ tiên để lại tại Vĩnh Phúc. Bố tôi có hai vợ: vợ cả có đăng ký kết hôn và mẹ của chúng tôi là vợ hai lấy năm 1942. Vợ cả có một người con gái đã mất không có chồng con. Còn vợ hai thì sinh được 5 anh em chúng tôi (tôi là con trai trưởng). Năm 1979 bố tôi mất không để lại di chúc. Sau khi bố tôi mất mẹ tôi và bà vợ cả vẫn sống ở quê cùng vợ chồng người con trai thứ ba và có tên trong sổ địa chính. Năm 1980 vợ chồng người em trai thứ ba đã phá toàn bộ ngôi nhà cũ của bố mẹ để xây dựng nhà mới. Năm 1984 người em thứ ba của tôi cũng qua đời.Năm 1994 mẹ tôi ra Hà Nội trông con cho người con út (nhưng vẫn về quê trông nom nhà cửa và giỗ tết).
Năm 1996 người con dâu thứ ba đã tự ý kê khai và đã được cấp sổ đỏ đối với diện tích đất trên mà không ai biết. Năm 2001 bà vợ cả cũng mất không có di chúc. Năm 2004 khi mẹ tôi về ở hẳn tại quê thì mới biết đất này đã được cấp sổ đỏ cho người con dâu thứ ba. Gia đình tôi đã đề nghị chuyển tên sổ đỏ sang tên mẹ tôi nhưng người này không đồng ý. Cho tôi hỏi:
1Việc cấp sổ đỏ cho người con dâu thứ ba như vậy có đúng không?
2. Người con dâu thứ 3 có quyền hưởng thừa kế nhà, đất này không?
3. Mẹ tôi và các anh em chúng tôi có quyền được hưởng thừa kế không? Chúng tôi có quyền khởi kiện đối với hành vi của người con dâu thứ 3 đó không?
Chào bạn !
TLLAW.VN xin tư vấn pháp luật tốt nhất như sau:
Xét về nguồn gốc mảnh đất thì 550m2 đất của bố mẹ bạn có được là do tổ tiên để lại, từ trước năm 1987 mà theo quy định của Luật đất đai năm 1987 thì: “ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý”. Vì vậy bố, mẹ bạn không có quyền sở hữu đối với 550m2 đất đó mà chỉ có quyền sở hữu đối với căn nhà trên đất.
Năm 1979 bố bạn mất không để lại di chúc căn cứ vào pháp lệnh chia thừa kế năm 1990 thì người thừa kế của bố bạn gồm có 2 bà vợ (2 mẹ của bạn) và 5 người con là 5 anh em bạn. Như vậy vợ của người con thứ 3 trong gia đình bạn không phải là người thừa kế theo quy định của pháp luật.
Sau khi bố bạn mất không ai yêu cầu chia thừa kế mà toàn bộ nhà, đất đề cho 2 bà vợ của bố bạn quản lý, sử dụng. Theo quy định của Luật đất đai năm 1987 thì hai bà vợ của bố bạn được xác định là người sử dụng đất hợp pháp. Năm 1980 vợ chồng người em thứ 3 của bạn phá toàn bộ nhà cũ đi xây dựng nhà mới không có ai phản đối, như vậy căn nhà trên mảnh đất 550m2 hiện giờ không còn là tài sản chung để lại thừa kế nữa mà là tài sản riêng của vợ chồng người con thứ 3. Nhưng đối với mảnh đất 550 m2 thì theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật đất đai năm 1993 thì: “ Người sử dụng đất ổn định được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Như vậy 2 bà vợ của bố bạn sẽ được đăng ký tên trên bản đồ địa chính của xã và thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên căn cứ dữ kiện ông nêu thì có những sự kiện xảy ra như: Năm 1984 người em trai thứ ba đã mất. Năm 1994 mẹ của ông (người vợ hai) ra Hà Nội ở. Tại nhà đất ở quê chỉ có bà vợ cả và người con dâu thứ ba ở. Năm 1996 người con dâu đã tự ý kê khai đối với quyền sử dụng 550 m2 đất và đã được cấp giấy chứng nhận (mà không ai được biết). Năm 2001 bà vợ cả mất không có di chúc, toàn bộ nhà đất này chỉ có một mình người con dâu thứ ba quản lý. Vì quyền sử dụng đất tại quê không phải là tài sản của người con trai thứ 3 nên người con dâu thứ ba chỉ là người tạm thời quản lý trông nom diện tích đất đó.
1. Như vậy việc cấp sổ đỏ cho người con dâu thứ ba như vậy là không đúng quy định của pháp luật.
Căn cứ quy định pháp luật vào thời điểm cấp giấy chứng nhận năm 1996 (cụ thể là Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất) thì việc cấp giấy chứng nhận cho người sử dụng đất phải căn cứ vào các giấy tờ về “thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999.
Như vậy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất này cho người con dâu vào năm 1996 khi hai bà vợ đang còn sống là không đúng vì người này không phải là người sử dụng đất hợp pháp và không có các loại giấy tờ mà pháp luật quy định như nêu trên.
2. Người con dâu thứ 3 không có quyền được hưởng thừa kế nhà, đất. Do theo quy định tại pháp lệnh thừa kế năm 1990 thì người được thừa kế căn nhà đó là 2 bà vợ và 5 người con của bố bạn chứ người con dâu không nằm trong hàng thừa kế. Tuy nhiên căn nhà đã được vợ chồng người con thứ 3 phá đi xây mới lại không bị sự phản đối của mọi người nên ngôi nhà mới đó là tài sản của 2 vợ chồng người con thứ 3 nhưng do người con thứ 3 đã mất vì vậy nên căn nhà đó là tài sản của vợ và các con của người con thứ 3 trong gia đình bạn.
3. Căn cứ vào khoản 7 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì mẹ bạn có quyền yêu cầu Tòa giải quyết tranh chấp “quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” cụ thể: yêu cầu Toà án xác định bà vợ hai có quyền đối với quyền sử dụng 550 m2 đất theo quy định của Luật đất đai còn người con dâu chỉ có quyền sở hữu đối với ngôi nhà trên đất.
Hãy nhấc máy gọiTỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬTđể được sử dụng dịch vụ tư vấn luật tốt nhất.Công ty chúng tôi luôn có đội ngũ luật sư giỏi, uy tín, và có tính chuyên nghiệp, tính quốc tế cao, để được đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng.
“ Thành công của khách hàng là thành công của TLLAW.VN ”
Thông tin luật mới nhất
Thông tin luật cũ hơn
- Tư vấn đất bị thu hồi
- phân chia di sản là mảnh đất 510m2
- Quy hoạch sử dụng đất có ảnh hưởng đến giao dịch mua bán không
- Chồng mất sang tên sổ đỏ có cần anh em chồng ký tên
- Thủ tục sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- Quyền thừa kế đất đai khi người mất không để lại di chúc
- Khách nước ngoài ở khách sạn có phải mang theo giấy tạm trú
- Quyền thừa kế đất đai
- Thủ tục mua bán đất, tách thửa
- Hỏi đáp về thủ tục sang tên sổ đỏ