Đất có được coi là tài sản chung

dat-co-duoc-coi-la-tai-san-chungTôi kết hôn với chồng năm 1957 và về sống chung một nhà cùng vợ cả của chồng (ngôi nhà này là tài sản của chồng tôi). Gần 10 năm sau tôi và chồng khai hoang một mảnh đất, tôi và chồng ở đó cho đến nay. Vậy tôi có được xác nhận là vợ hợp pháp của chồng tôi hay không?

Năm 2008 chồng tôi mất không để lại di chúc, vợ cả của chồng đòi chia 1/3 giá trị tài sản nơi tôi đang ở. Tôi có được chia 1/3 tài sản mà vợ cả đang ở hay không?

 

 

 

Chào bạn !

TLLAW.VN xin tư vấn pháp luật tốt nhất như sau:

   Đối với trường hợp của bà, Bà vẫn được xác nhận là vợ hợp pháp của chồng bà. Vì theo quy định tại Mục 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội “về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình” quy định: “Theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn”.

   Như vậy nghĩa vụ đăng ký kết hôn chỉ đặt ra đối với trường hợp chung sống chung như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001. Do đó đối với trường hợp của bà chung sống với ông từ năm 1957 trước năm 1987 nên đương nhiên được coi là vợ chồng hợp pháp.

   Đối với trường hợp chia tài sản của gia đình bà sẽ được tiến hành như sau:

   Bà và chồng bà khai hoang được mảng đất và sinh sống ổn định. Do đó, về nguyên tắc mảnh đất này phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng bà và bà có quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với 1/2 giá trị quyền sử dụng đất đó.

   Theo quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 thì hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Có nghĩa là đối với 1/2 giá trị mảnh đất còn lại mới là tài sản thừa kế và bà cùng người vợ cả cũng như những người khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất chỉ có thể đòi quyền thừa kế đối với khối tài sản này. Việc người vợ cả đòi chia 1/3 giá trị mảnh đất nơi bà đang ở là hoàn toàn không có cơ sở.

   Ngoài ra, vì bà được pháp luật công nhận là vợ hợp pháp của chồng nên bà không những có quyền thừa kế 1 phần đối với 1/2 giá trị mảnh đất nói trên mà còn có quyền thừa kế đối với 1 phần giá trị tài sản là ngôi nhà hiện người vợ cả đang ở nếu ngôi nhà đó được xác định là tài sản thừa kế do chồng bà để lại. Bà có thể thỏa thuận với bà vợ cả về việc chia thừa kế căn nhà đó hoặc có quyền yêu cầu Tòa án chia thừa kế theo pháp luật do chồng bà không để lại di chúc.

Hãy nhấc máy gọiTỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬTđể được sử dụng dịch vụ tư vấn luật tốt nhất.Công ty chúng tôi luôn có đội ngũ luật sư giỏi, uy tín, và có tính chuyên nghiệp, tính quốc tế cao, để được đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng.

“ Thành công của khách hàng là thành công của TLLAW.VN ”